#1: Kiểm thử chứng mình sự hiện diện của lỗi
Kiểm thử chỉ có thể chứng minh được rằng sản phẩm có lỗi. Kiểm thử phần mềm không thể chứng mình rằng sản phẩm không còn lỗi. Nghĩa là sản phẩm luôn có lỗi cho dù có kiểm thử nhiều bao nhiêu. Do đó, điều quan trọng là chúng ta phải thiết kế các trường hợp kiểm thử (test case) sao cho có thể tìm được càng nhiều lỗi càng tốt
#2: Kiểm thử toàn bộ là không khả thi
Trừ khi sản phẩm được kiểm thử quá đơn giản cũng như không có nhiều giá trị đầu vào (chẳng hạn như “Hello World”) thì việc chứng minh sản phẩm không còn bug cho dù có kiểm thử nhiều đến đâu là không khả thi. Hầu hết các sản phẩm ngày nay rất đa dạng và phức tạp do được phát triển trên nhiều nền tảng, công nghệ phong phú cũng như khả năng lưu trữ kết nối dữ liệu lớn, khiến việc kiểm thử trở nên khó khăn và việc kiểm thử toàn bộ là gần như không thể.
Do đó, việc chúng ta có thể làm là chọn thực thi những loại kiểm thử quan trọng nhất dựa trên phân tích rủi ro cũng như tầm quan trọng và độ ưu tiên của việc kiểm thử. Nghĩa là phải lên kế hoạch kiểm thử, thiết kế trường hợp kiểm thử sao cho có độ bao phủ nhiều nhất và giảm thiểu rủi ro sót lỗi khi đến tay người dùng
#3: Kiểm thử càng sớm càng tốt
Hoạt động kiểm thử được triển khai sớm chừng nào thì tốt chừng ấy. Chẳng hạn, chúng ta có thể bắt đầu hoạt động kiểm thử ngay từ khi sản phẩm bắt đầu hình thành chẳng hạn như giai đoan lấy yêu cầu khách hàng hay thiết kế tài liệu sản phẩm.
Thông thường, thời gian cho kiểm thử thường bị co lại khi sản phẩm gần ra thị trường. Do đó, việc kiểm thử sớm trong giai đoạn đầu sẽ giúp chúng ta có thời gian để tiến hành kiểm thử trong từng giai đoạn một cách đầy đủ.
Ngoài ra ai làm phần mềm cũng biết được rằng việc phát hiện lỗi càng trể bao nhiêu thì chi phí để sửa lỗi càng cao bấy nhiêu. Tương tự, việc thay đổi yêu cầu không đúng ngay từ đầu thường tốn ít chi phí thay đổi tính năng trong hệ thống.
#4: Lỗi phân bố tập trung
Trong quá trình kiểm thử, chúng ta sẽ có thể dễ dàng quan sát thấy đa phần những lỗi tìm được thường chỉ liên quan đến một vài tính năng của hệ thống. Điều này cũng thuận theo nguyên lý Pareto: 80% số lượng lỗi được tìm thấy trong 20% tính năng của hệ thống.
Điều này cũng có nghĩa là khi tìm lỗi, chúng ta nên tập trung vào những module, thành phần chức năng chính của hệ thống. Một lỗi trên những module chính này có giá trị gấp nhiều lần lỗi tìm được trên những module phụ khác.
#5: Nghịch lý thuốc trừ sau (pesticide paradox)
Trong kiểm thử phần mềm, nếu bạn cứ thực thi lặp đi lặp lại một bộ test case thì có khả năng rất thấp bạn sẽ tìm được lỗi từ những trường hợp kiểm thử này. Nguyên nhân là do khi hệ thống ngày càng hoàn thiện, những lỗi được tìm thấy lúc trước đã được sửa trong khi những trường hợp kiểm thử đã cũ. Do đó, khi một lỗi được sửa hay một tính năng mới được thêm vào, chúng ta nên tiến hành làm regression (kiểm thử hồi qui) nhằm mục đích đảm bảo những thay đổi này không ảnh hưởng đến những vùng khác của sản phẩm. Tuy nhiên, các trường hợp kiểm thử trong regression test cũng cần phải được cập nhật để phản ánh sự thay đổi tương ứng của hệ thống.
#6: Kiểm thử phần mềm phụ thuộc vào ngữ cảnh
Tuy vào loại cũng như bản chất của ứng dụng mà chúng ta sẽ áp dụng những phương thức, kỹ thuật, cũng như loại kiểm thử khác nhau.
Chẳng hạn như phần mềm trong các thiết bị y khoa cần sẽ được kiểm thử kỹ lưỡng hơn một trò chơi điện tử. Quan trọng hơn, việc kiểm thử trên loại thiết bị này đòi hỏi phải dựa trên đánh giá rủi ro, đáp ứng những qui định nghiêm ngặt trong y khoa cũng như một bộ kiểm thử đặc thù. Tương tự, một website “lớn” cần phải được một cách đầy đủ từ hiệu năng đến tính năng nhằm đảm bảo server không bị ảnh hưởng khi có nhiều người truy cập vào hệ thống
#7: Quan niệm sai lầm về việc “hết lỗi”
Việc không tìm thấy lỗi trên sản phẩm không đồng nghĩa với việc sản phẩm đã sẵn sàng để tung ra thị trường. Việc không tìm thấy lỗi cũng có thể là do bộ trường hợp kiểm thử được tạo ra chỉ nhằm kiểm tra những tính năng được làm đúng theo yêu cầu thay vì nhằm tìm kiếm lỗi mới.